[tintuc]
Giá đồng Luân đôn tăng vào thứ sáu trước khi công bố dữ liệu việc làm quan trọng tại Mỹ, trong khi mức tăng bị hạn chế bởi triển vọng nhu cầu giảm tại quốc gia tiêu thụ hàng đầu là Trung Quốc.
Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 0,4% lên 9.089 USD/tấn, trong khi hợp đồng đồng tháng 9 được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) SCFcv1 giảm 1,7% xuống 73.700 Nhân dân tệ (10.211,57 USD)/tấn.
Các nhà đầu tư đang chờ báo cáo bảng lương hàng tháng từ Mỹ vào cuối ngày để biết thêm manh mối về nền kinh tế và lộ trình cắt giảm lãi suất.
Triển vọng về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất vào tháng 9 đã hỗ trợ giá vào đầu tuần này, nhưng mức tăng đã bị thu hẹp sau khi một loạt dữ liệu cho thấy hoạt động sản xuất yếu kém ở Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Giá đồng, thường được coi là chỉ báo kinh tế, ít thay đổi theo tuần sau ba tuần liên tiếp giảm, với nhu cầu yếu, lượng hàng tồn kho cao và việc Trung Quốc thiếu các biện pháp kích thích cụ thể cho lĩnh vực nhà ở đang gặp khó khăn của nước này đang đè nặng lên thị trường.
Gần đây, có những dấu hiệu cho thấy mức tiêu thụ tốt hơn ở Trung Quốc, điều này có thể làm giảm lượng xuất khẩu từ quốc gia trước đó đã đẩy lượng hàng tồn kho toàn cầu tăng cao hơn.
Tuần này, mức phí bảo hiểm Yangshan đã tăng lên mức đỉnh hơn ba tháng, báo hiệu nhu cầu nhập khẩu ở Trung Quốc.
Trong khi đó, lượng đồng giao dịch tại SHFE đã giảm 2% vào thứ Sáu nhưng không còn xa mức đỉnh trong khoảng bốn năm.
Những người tham gia thị trường đang dự đoán nhu cầu sẽ tăng vào khoảng tháng 9, mùa tiêu thụ theo truyền thống là mạnh.
Nhôm CMAL3 của LME giảm 0,1% xuống 2.293,50 USD/tấn, kẽm CMZN3 tăng 0,2% lên 2.713 USD, thiếc CMSN3 tăng 1,6% lên 30.380 USD và niken CMNI3 tăng 0,3% lên 16.335 USD.
Niken của LME đã thiết lập mức tăng hàng tuần đầu tiên trong ba tuần, nhờ nguồn cung quặng niken thắt chặt ở Indonesia và sản lượng thép không gỉ tháng 8 tốt hơn ở Trung Quốc.
Nhôm SAFcv1 của SHFE giảm 0,3% xuống 19.220 Nhân dân tệ/tấn, kẽm SZNcv1 tăng 0,3% lên 22.920 Nhân dân tệ, thiếc SSNcv1 giảm 0,3% xuống 249.970 Nhân dân tệ, niken SNIcv1 giảm 1,5% xuống 130.990 Nhân dân tệ.
Nguồn tin: Kinh tế & Đô thị
[/tintuc]
[tintuc]
Ngày 24/4/2024, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) chính thức thông báo áp dụng quy định mới về điều tra chống bán phá giá (CBPG), chống trợ cấp (CTC) và chống lẩn tránh đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ.
[/tintuc]
[tintuc]
Dự báo quý 3/2023 tiếp tục là một quý đầy thách thức với các doanh nghiệp sản xuất thép Việt Nam khi nhu cầu thị trường chững lại do mùa mưa và giá bán giảm sẽ ảnh hưởng đến biên lợi nhuận mặc dù chi phí đầu vào ổn định.
Lợi nhuận ngành thép đi ngang trong quý 2/2023
![]() |
Tăng trưởng doanh thu trong quý 2/2023 và 6 tháng đầu năm 2023 của một số doanh nghiệp ngành thép niêm yết tiêu biểu trên thị trường chứng khoán Việt Nam. (Nguồn: KIS Vietnam, Fiinpro) |
Dữ liệu của KIS Vietnam Securities (KIS Vietnam) cho thấy, tốc độ tăng trưởng doanh thu trong quý 2/2023 của 24 công ty ngành thép niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã giảm 27,7% so với quý 2/2022.
Đặc biệt, cả 9 công ty hàng đầu trong ngành thép đều có mức tăng trưởng âm. Trong đó, Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoà Phát (mã cổ phiếu HPG) có mức tăng trưởng doanh thu âm 21,1% trong quý 2/2023 (so với quý 2/2022). Tăng trưởng doanh thu của Công ty Cổ phần Thép Nam Kim (mã cổ phiếu NKG) ở mức -23,5%; trong khi đó, Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen (mã cổ phiếu HSG) ghi nhận mức giảm lên tới 29% trong quý 2/2023.
Tính đến cuối tháng 6/2023, các doanh nghiệp ngành thép đã hoàn thành từ 25% - 62% mục tiêu doanh thu cả năm nay.
Điểm sáng là quy mô doanh thu trong quý 2/2023 gần như đi ngang so với quý 1/2023 trong bối cảnh doanh thu xuất khẩu tốt hơn đã bù đắp sự suy yếu trên thị trường nội địa. Cụ thể, tổng sản lượng tiêu thụ thép trong quý 2/2023 chỉ đạt 6 triệu tấn, giảm 7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, tổng khối lượng xuất khẩu là 2,1 triệu tấn, tăng 25,1% so với quý 2/2022 và tăng hơn 34% so với quý 1/2023. Đặc biệt, khối lượng xuất khẩu thép cuộn cán nóng (HRC) lên đến 1,1 triệu tấn, tăng 128% so với quý 2/2022 và tăng 54% so với quý 1/2023.
![]() |
Tăng trưởng lợi nhuận ròng của phần lớn các doanh nghiệp ngành thép trong quý 2/2023 và 6 tháng đầu năm nay đều ở mức âm. (Nguồn: KIS Vietnam, Fiinpro) |
Đối với lợi nhuận ròng, lợi nhuận ròng của toàn ngành thép gần như đi ngang trong quý 2/2023. Gần một nửa trong số 24 doanh nghiệp thép vẫn báo lỗ trong quý vừa rồi. Trong số 9 doanh nghiệp thép có doanh thu cao nhất, Thép Nam Kim báo lãi hơn 125 tỷ đồng sau khi thua lỗ 3 quý liên tiếp trước đó; trong khi đó, Tập đoàn Hoa Sen chỉ ghi nhận lãi hơn 14 tỷ đồng. Lãi ròng của Tập đoàn Hoà Phát đạt 1.447 tỷ đồng, giảm 64% so với quý 2/2022, nhưng lại tăng gấp 3,7 lần so với quý 1/2023.
Theo đó, tổng lợi nhuận sau thuế của công ty mẹ của 24 doanh nghiệp ngành thép niêm yết trong quý 2/2023 đã giảm tới 89,2% so với cùng kỳ năm trước, nhưng tăng 7% so với quý 1/2023.
Tín hiệu tích cực là biên lợi nhuận gộp của các doanh nghiệp đã được cải thiện, từ mức 5,5% trong quý 2/2022 lên mức 7,4% trong quý 2/2023 khi mà áp lực chi phí hàng tồn kho đã không còn. Hiện các công ty đã hoàn thành khoảng 0-79% kế hoạch lợi nhuận ròng năm nay.
Nhu cầu tiêu thụ thép trong quý 3/2023 tiếp tục chững lại
KIS Vietnam nhận định nhu cầu trên thị trường thép trong nước sẽ tiếp tục ở mức yếu trong quý 3/2023 do ảnh hưởng của mùa mưa. Tuy nhiên, hiện tượng El Nino có thể làm tăng số ngày khô trong quý 3 này, điều này sẽ tác động tích cực phần nao đến sản lượng tiêu thụ thép.
![]() |
Giá bán thép trên thị trường nội địa Việt Nam đã sụt giảm rõ rệt kể từ tháng 4/2023. (Nguồn: KIS Vietnam, FiinPro) |
KIS Vietnam hiện dự báo tổng sản lượng tiêu thụ thép cả nước trong quý 3/2023 sẽ là 5,8 triệu tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng giảm 9% so với mức tiêu thụ 6 triệu tấn của quý 2/2023. Đồng thời, hãng chứng khoán này đánh giá kênh xuất khẩu dự kiến sẽ tiếp tục là “điểm tựa” cho các doanh nghiệp, hỗ trợ tổng doanh số bán hàng của các doanh nghiệp ngành thép trong quý 3/2023.
Đối với nguyên vật liệu đầu vào, giá của hầu hết các nguyên liệu đầu vào như quặng sắt, than cốc,… được nhận định có thể sẽ tăng lên do tâm lý tốt từ Trung Quốc - thị trường sản xuất thép lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, tốc độ tăng của giá các nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất thép có thể sẽ không tăng cùng tốc độ với giá nguyên liệu đầu vào của thị trường, do đó, biên lợi nhuận gộp của các doanh nghiệp ngành thép sẽ chỉ bị ảnh hưởng nhẹ do giá bán giảm và có thể đi ngang so với quý 2/2023.
![]() |
Diễn biến giá thép HRC tại thị trường Việt Nam, EU, Hoa Kỳ và Trung Quốc trong thời gian qua. (Nguồn: KIS Vietnam, Fiinpro) |
Theo KIS Vietnam, giá thép cuộn cán nóng (HRC) sẽ phục hồi trong quý 3/2023, qua đó tác động tích cực đến doanh thu và lợi nhuận của các công ty từ cuối tháng 9/2023 và trong quý 4/2023.
Đáng chú ý, vừa qua Văn phòng Chính phủ đã có Văn bản số 5691/VPCP-CN về một số kiến nghị của Hội, Hiệp hội sản xuất và cung ứng vật liệu xây dựng gửi Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
Trước đó, vào ngày 1/7/2023, 8 Hội, Hiệp hội là: Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam, Hiệp hội Xi măng Việt Nam, Hội Bê tông Việt Nam, Hiệp hội Thép Việt Nam, Hiệp hội Gốm sứ xây dựng Việt Nam, Hiệp hội Kính và thủy tinh Việt Nam, Hiệp hội Tấm lợp Việt Nam và Hội Khoa học kỹ thuật cầu đường Việt Nam đã có kiến nghị đến Thủ tướng Chính phủ về việc tháo gỡ tắc nghẽn tiêu thụ các sản phẩm vật liệu xây dựng chủ yếu sử dụng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp, bao gồm các sản phẩm thép.
Trước kiến nghị này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có ý kiến chỉ đạo Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan liên quan xử lý kiến nghị của Hội, Hiệp hội về khó khăn, vướng mắc trong tiêu thụ các sản phẩm vật liệu xây dựng theo đúng quy định, trường hợp vượt thẩm quyền, đề xuất phương án xử lý, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15/8/2023.
Đồng thời, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải khẩn trương thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng tại Văn bản số 5174/VPCP-CN ngày 11/7/2023. Đồng thời chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và cơ quan liên quan xử lý kiến nghị của Hội, Hiệp hội về việc xây dựng đường dạng cầu cạn ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, báo cáo Thủ tướng trước ngày 30/8/2023.
Nhận định tổng thể về triển vọng ngành thép Việt Nam năm nay, KIS Vietnam cho rằng sản lượng tiêu thụ thép cả năm 2023 sẽ gần như đi ngang so với năm trước. Lực cầu yếu tiếp tục là rủi ro chủ chốt đối với ngành thép. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại và các vấn đề trong nước liên quan đến lĩnh vực trái phiếu và bất động sản có thể đe dọa hơn nữa đến kết quả kinh doanh của ngành.
Nguồn tin: Công thương
[/tintuc]
[tintuc]
Ngày 28/7, thị trường thép nội địa giữ đà đi ngang. Còn trên sàn giao dịch Thượng Hải, với thép kỳ hạn giao tháng 5/2024 giảm xuống mức 3.752 Nhân dân tệ/tấn.
Giá thép tại miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát, với thép thanh vằn D10 CB300 hiện có giá 14.140 đồng/kg; dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.040 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Ý, với thép cuộn CB240 có giá 13.740 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 13.890 đồng/kg.
![]() |
Thép kỳ hạn quay đầu giảm giá. Ảnh minh họa |
Thép Việt Đức, với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.090 đồng/kg; thép cuộn CB240 ở mức 13.840 đồng/kg.
Thép Việt Sing không có biến động, với thép cuộn CB240 ở mức 13.600 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.800 đồng/kg.
Thép VAS, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.500 đồng/kg và thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.600 đồng/kg.
Thép Việt Nhật, với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.700 đồng/kg; còn dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.800 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.840 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 tiếp tục giữ giá 13.990 đồng/kg.
Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.140 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.340 đồng/kg.
Thép VAS, hiện thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.650 đồng/kg; dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.600 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.590 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.690 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát, thép thanh vằn D10 CB300 giảm 100 đồng, hiện có giá 14.090 đồng/kg; thép cuộn CB240 ở mức 14.140 đồng/kg.
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.700 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.700 đồng/kg.
Thép Pomina không thay đổi, dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.480 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.890 đồng/kg.
Giá thép trên sàn giao dịch
Giá thép giao kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn giao dịch Thượng Hải (SHFE) giảm 19 Nhân dân tệ, xuống mức 3.752 Nhân dân tệ/tấn.
Giá quặng sắt tương lai giảm vào ngày 27/7, với điểm chuẩn của sàn giao dịch Đại Liên giảm sau khi tăng ba ngày do Trung Quốc cam kết tăng cường hỗ trợ cho lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn, khi các thương nhân chờ đợi các hành động chính sách tiếp theo.
Triển vọng tăng nguồn cung nguyên liệu sản xuất thép cũng ảnh hưởng đến giá cả, với công ty khai thác Fortescue đánh dấu các lô hàng cao hơn cho năm tài chính 2024, thêm vào việc tăng lượng giao hàng của các công ty cùng ngành là Rio Tinto và BHP Group.
Quặng sắt tháng 9 được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc đã kết thúc giao dịch buổi sáng thấp hơn 1% ở mức 856 Nhân dân tệ (120,06 USD)/tấn.
Trên sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt giao dịch mạnh nhất trong tháng 9 giảm 1% xuống 112,10 USD/tấn.
Các nhà phân tích của Nomura cho biết trong một lưu ý rằng: “Thị trường hiện đang chờ đợi nhiều hành động và động thái tiếp theo hơn,” sau khi các nhà lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc trong tuần này báo hiệu nhiều bước kích thích hơn để trẻ hóa nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và nhà sản xuất thép hàng đầu.
Các nhà phân tích cho biết: “Tính bền vững của hy vọng mới này chủ yếu phụ thuộc vào thông tin chi tiết của bất kỳ gói kích thích nào – điều mà cho đến nay vẫn còn thiếu”.
Giám đốc điều hành Jacob Stausholm cho biết Rio, nhà sản xuất quặng sắt lớn nhất thế giới, lạc quan một cách thận trọng về nền kinh tế Trung Quốc trong thời gian còn lại của năm.
Nguồn tin: Kinh tế & Đô thị
[/tintuc]
[tintuc]
Sắt, thép là một trong những ngành chịu tác động từ Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Chính sách này sẽ thí điểm áp dụng chuyển tiếp từ ngày 1/10/2023.
Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) sẽ được Liên minh Châu Âu (EU) thí điểm áp dụng giai đoạn chuyển tiếp từ ngày 1/10/2023 và thực hiện đầy đủ từ năm 2026.
Xuất khẩu thép sang EU sẽ bị ảnh hưởng?
Hiện, EU là một trong những thị trường xuất khẩu top đầu của ngành thép Việt Nam. Theo nhận định, nếu các doanh nghiệp thép Việt Nam không ứng phó tốt với CBAM, xuất khẩu sang EU sẽ bị ảnh hưởng, nguy cơ hơn là mất thêm nhiều thị trường khác khi những quốc gia này đang xem xét áp dụng các quy định tương tự như CBAM.
Sắt thép là một trong những ngành chịu tác động trực tiếp từ cơ chế điều chỉnh carbon qua biên giới của EU (CBAM). Đây là công cụ chính sách mới của EU cho phép đánh thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu có mức phát thải cao.
Cụ thể, từ tháng 10/2023, các doanh nghiệp thép sẽ phải thực hiện báo cáo về tổng phát thải tích hợp trong hàng hóa theo loại và không chịu phí CBAM. Sau khi được vận hành chính thức từ ngày 01/01/2026, doanh nghiệp thép sẽ phải mua 1 chứng chỉ CBAM cho mỗi tấn CO2 tương đương có trong sản phẩm nhập khẩu vào EU dựa trên hạn ngạch miễn phí ETS và phần trăm CBAM. Đến năm 2034, cơ chế CBAM sẽ có hiệu lực và các doanh nghiệp thép sẽ phải nộp 100% phí.
![]() |
Dây chuyền sản xuất tại nhà máy của Tập đoàn Hoa Sen. Ảnh: Phương Đông |
Chính sách thuế này ảnh hưởng lớn tới ngành thép. Đại diện Posco Hàn Quốc cho biết, để ứng phó với quy định này, Posco Hàn Quốc đang hướng tới mục tiêu đến năm 2050 sẽ trung hòa carbon. Lộ trình từ nay tới năm 2040, Posco sẽ giảm 50% lượng khí thải carbon. Tuy nhiên, đây là thách thức không đơn giản. Hiện Posco Hàn Quốc đang khai thác một kỹ thuật tiên tiến mới là không dùng carbon sản xuất thép mà thay thế bằng hydro.
Lãnh đạo Posco Hàn Quốc cũng cho biết, đơn vị đã đến châu Âu 5 lần để đề cập đến vấn đề này. EU cũng nhận định còn một số vấn đề liên quan tới cơ chế nhưng vẫn kiên quyết với lộ trình kể từ tháng 10 năm nay, các công ty thép, trong đó có Việt Nam phải thực hiện chế độ báo cáo, nếu thông tin không chính xác sẽ bị phạt tiền.
Theo đại diện Posco, đây sẽ là rào cản thương mại với ngành thép, đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành thép cần bắt tay nhau để ứng phó với cơ chế CBMA.
Chủ động ứng phó
Ông Đinh Quốc Thái - Tổng Thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho biết, EU là một trong những thị trường hàng đầu của ngành thép. Nếu các doanh nghiệp thép không ứng phó tốt với CBAM của EU thì lượng hàng xuất khẩu sang EU, quan hệ thương mại hai chiều về thép với EU bị ảnh hưởng. Đây sẽ là thách thức rất lớn đối với doanh nghiệp thép. Từ 1/10 năm nay, các doanh nghiệp thép sẽ phải trực tiếp báo cáo với phía EU, do vậy phải chuẩn bị tài liệu tốt nhất để đáp ứng yêu cầu của EU.
Về chính sách thuế carbon qua biên giới của EU (CBAM), ông Thái cho rằng, các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU đã biết tới quy định trên. Tuy nhiên, ứng phó thế nào thì phải có kinh nghiệm, đây cũng là việc hoàn toàn mới. Doanh nghiệp ngành thép cũng mong muốn có thêm sự hỗ trợ của Nhà nước, đồng thời giải thích thêm về các khái niệm kỹ thuật cho doanh nghiệp.
Ông Tăng Thế Hùng - Phó Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững (Bộ Công Thương) cũng đánh giá, cơ chế tương tự như CBAM sẽ mở rộng ra với các thị trường khác, chứ không chỉ dừng ở EU. Ngành thép vốn là ngành tiêu thụ nhiều năng lượng, vì vậy, các doanh nghiệp cần hành động nhiều hơn để tuân thủ quy định mới theo Luật Bảo vệ môi trường.
Hơn nữa, hiện nay, trước các quy định về kiểm soát phát thải nhà kính, trên thế giới nhiều tập đoàn hàng đầu như Nike, Adidas, Coca - Cola, Heineken… cũng đưa ra các tiêu chí quan trọng về môi trường để lựa chọn nhà cung cấp. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam muốn tham gia vào chuỗi của các thương hiệu toàn cầu cần đáp ứng quy định về giảm phát thải carbon.
Ông Phạm Công Thảo - Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Thép Việt Nam cho biết, doanh nghiệp này cũng đang nắm bắt thông tin, chuẩn bị để ứng phó bởi mục tiêu là mở rộng thêm thị trường xuất khẩu. Nếu không nắm kỹ quy định sẽ khó nắm bắt được cơ hội xuất khẩu trong thời gian tới, nhất là khi thị trường trong nước ngày càng cạnh tranh khốc liệt.
Ông Thảo chia sẻ thêm, về lâu dài, doanh nghiệp thép cần sản xuất thép xanh. Tuy nhiên, làm thép xanh là con đường dài, đòi hỏi nguồn lực về tài chính, cũng như sự chủ động của doanh nghiệp, nhất là khi các quy định giảm phát thải carbon vẫn còn mới. Về phía Tổng công ty Thép Việt Nam, doanh nghiệp sẽ cố gắng đến năm 2050 sẽ trung hòa được carbon.
Có thể nói, năm 2023 là một năm khó khăn đối với ngành thép Việt Nam khi giá thép giảm liên tục, tiêu thụ kém, tồn kho tăng cao. Dự báo từ nay đến cuối năm, thị trường thép trong nước tiếp tục ảm đạm. Để có thể gỡ khó và đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp thép trong nước phải nâng cao kiến thức và hướng tới sản xuất xanh, bền vững, bắt kịp xu thế của thế giới.
Nguồn tin: Công thương
[/tintuc]
[tintuc]
Ngày 26/7, thị trường thép nội địa giữ đà đi ngang. Còn trên sàn giao dịch Thượng Hải, với thép kỳ hạn giao tháng 5/2024 tăng lên mức 3.752 Nhân dân tệ/tấn.
Giá thép tại miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát tiếp tục đi ngang, với thép thanh vằn D10 CB300 sau 5 ngày liên tiếp có giá 14.140 đồng/kg; dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.040 đồng/kg.
Thép Việt Ý, với thép cuộn CB240 có giá 13.740 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 13.890 đồng/kg.
![]() |
Thép kỳ hạn trên sàn giao dịch tiếp tục tăng giá. Ảnh minh họa |
Thép Việt Đức không có biến động, với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.090 đồng/kg; thép cuộn CB240 ở mức 13.840 đồng/kg.
Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 vẫn ở mức 13.600 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.800 đồng/kg.
Thép VAS, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.500 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.600 đồng/kg.
Thép Việt Nhật, với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.700 đồng/kg; còn dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.800 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.840 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.990 đồng/kg.
Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.140 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.340 đồng/kg.
Thép VAS, hiện thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.650 đồng/kg; dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.600 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.590 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.690 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.090 đồng/kg; thép cuộn CB240 ở mức 14.140 đồng/kg.
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.700 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.700 đồng/kg.
Thép Pomina, dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.480 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.890 đồng/kg.
Giá thép trên sàn giao dịch
Giá thép giao kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn giao dịch Thượng Hải (SHFE) tăng 14 Nhân dân tệ, lên mức 3.752 Nhân dân tệ/tấn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tại Đại Liên nhích cao hơn vào phiên giao dịch đầu tuần, sau khi Trung Quốc công bố thêm nhiều kế hoạch để vực dậy nền kinh tế đang gặp khó khăn, mặc dù giá quặng sắt kỳ hạn tại Singapore giảm nhẹ.
Quặng sắt được giao dịch nhiều nhất trong tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc đã tăng 0,8% lên 849,5 Nhân dân tệ (118,11 USD)/tấn. Trên sàn giao dịch Singapore, quặng sắt chuẩn tháng 8 giảm 0,3% xuống 113,4 USD/tấn, giảm từ mức cao nhất trong ba tháng trong phiên trước đó.
Trung Quốc đã công bố các biện pháp nhằm thúc đẩy, khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng và cho biết họ sẽ tăng cường hỗ trợ tài chính cho các dự án tư nhân. Điều này được đưa ra sau khi nội các Trung Quốc thông qua các hướng dẫn về việc chuyển đổi các khu vực kém phát triển thành các siêu đô thị.
Về sản xuất, tổng cộng 13 lò cao, chiếm khoảng 58.000 tấn, sẽ được bảo trì từ ngày 21 - 31/7, tăng từ bảy lò vào ngày 21/7. Bất chấp mức tăng ngày hôm nay, những lo ngại về nhu cầu vẫn tồn tại.
Các nhà phân tích tại ngân hàng đầu tư ANZ cho biết: “Nhu cầu thép vẫn yếu do các chỉ số bất động sản xấu đi và nhu cầu theo mùa giảm khiến ít có hy vọng về một sự thay đổi thuận lợi”.
ANZ cho biết thêm: “Lợi nhuận của các nhà máy thép Trung Quốc đã chuyển sang mức âm, hạn chế cơ hội tăng sản lượng thép ngay lập tức”.
Điểm chuẩn thép trên SHFE tăng lên. Hợp đồng thép cây được giao dịch nhiều nhất tăng 0,9%, thép cuộn cán nóng tăng 1%, thép dây tăng 3,7% và thép không gỉ tăng 1,2%. Nguyên liệu sản xuất thép than cốc Đại Liên giảm 1%, trong khi than cốc tăng 0,3%.
Nguồn tin: Kinh tế & Đô thị
[/tintuc]